Với các tiến bộ của khoa học kỹ thuật, ngày nay ung thư đã trở thành bệnh có khả năng chữa khỏi nếu được phát hiện ở giai đoạn đầu. Và chính vì vậy việc phát hiện sớm ung thư đóng vai trò quyết định để ung thư không còn là bản án tử hình khi người nào mắc phải nó.
Hiện nay, xét nghiệm dấu ấn ung thư (tumor marker) CEA là một trong những xét nghiệm quan trọng góp phần giúp các bác sĩ định hướng chẩn đoán cũng như đánh giá hiệu quả điều trị hoặc tình trạng tái phát của một số bệnh lý ung thư. CEA là một kháng nguyên có ở tế bào ruột của thai nhi và khi trưởng thành thì chỉ còn nồng độ rất thấp ở trong máu. Khi bệnh nhân mắc ung thư, đặc biệt các ung thư tế bào biểu mô, nồng độ CEA tăng lên. Các ung thư đại trực tràng, dạ dày, phổi, tuyến tuỵ…có thể tăng CEA.
[external_link_head]1. CEA là gì?
CEA là một glycoprotein có ở màng bào tương của các tế bào màng nhày bình thường nhưng số lượng có thể tăng lên trong các ung thư thể tuyến (adenocarcinoma), đặc biệt là ung thư đại trực tràng. Nồng độ trong mô cao nhất của CEA được thấy ở ung thư biểu mô đại trực tràng nguyên phát và di căn gan của ung thư này, với nồng độ CEA trong màng nhày đại tràng có thể cao gấp 500 lần giá trị bình thường. CEA cũng thể hiện quá mức trong các ung thư biểu mô khác như ung thư dạ dày, phổi, … Từ các tế bào ung thư biểu mô, CEA được bài tiết vào máu tuần hoàn. CEA có thời gian bán hủy là khoảng 2 – 8 ngày.
2. Sử dụng CEA khi nào?
[external_link offset=1]Tỷ lệ các bệnh nhân ung thư có tăng CEA > 5ng/ml tùy theo các phủ tạng khác nhau nhưng thường dao động từ 50-70%. Giá trị CEA huyết tương ở người bình thường không hút thuốc lá thường <2,5 ng/ml, giá trị CEA ở người hút thuốc lá thường <5 ng/ml. Giá trị CEA trong các dịch chọc dò ở người không bị ung thư có giá trị gần như giá trị CEA trong huyết tương người bình thường. Cụ thể, giá trị CEA dịch màng bụng ở người không ung thư là < 4,6 ng/mL, giá trị cắt là < 5,0 ng/ml, giá trị CEA dịch màng phổi ở người không ung thư có giá trị cắt là 2,4 ng/ml, giá trị CEA dịch não tủy ở người không ung thư là 1,53±0,38 ng/ml.
Xét nghiệm CEA có thể được chỉ định khi một người đã được chẩn đoán ung thư đại trực tràng, dạ dày, phổi. CEA sẽ được định lượng trước khi bắt đầu điều trị và sau đó được xét nghiệm theo thời gian để đánh giá hiệu quả điều trị, tiên lượng và phát hiện tái phát, di căn.
Đôi khi xét nghiệm CEA có thể được thực hiện khi nghi ngờ ung thư nhưng chưa được chẩn đoán. Đây không phải là một xét nghiệm sử dụng chung cho tất cả các ung thư vì CEA có thể tăng trong nhiều bệnh lý khác nhau, tuy nhiên nó vẫn có thể được chỉ định để có thể cung cấp thêm thông tin cho chẩn đoán tùy bệnh cảnh lâm sàng cụ thể.
Một xét nghiệm CEA ban đầu thường được thực hiện trước khi điều trị như một giá trị “nền”. Nếu giá trị CEA tăng thì có thể được sử dụng để theo dõi đáp ứng đối với điều trị và phát hiện sớm tái phát, di căn.
Ngoài ra, CEA trong một mẫu chất dịch cơ thể có thể giúp xác định xem ung thư đã xâm lấn lan rộng đến một khoang cơ thể (ví dụ, dịch phúc mạc, dịch màng phổi hoặc dịch não tủy).
3. Ý nghĩa của CEA
Độ nhạy lâm sàng của CEA để chẩn đoán ung thư đại trực tràng là 50%, độ đặc hiệu là 90%. Chính vì vậy mà CEA được coi như một chất chỉ điểm “vàng” trong chẩn đoán sớm ung thư đại trực tràng.
Trong ung thư đại trực tràng, giá trị CEA có thể được sử dụng để tiên lượng và phát hiện khối u còn sót lại sau phẫu thuật. Giá trị CEA trước phẫu thuật cũng là một giá trị tiên lượng và xác định giai đoạn của khối u. Nói chung, các khối u có giá trị CEA cao tiên lượng rất xấu.
[external_link offset=2]Sau phẫu thuật ung thư đại trực tràng, giá trị CEA huyết tương sẽ giảm xuống dần và trở về mức bình thường trong 4 đến 6 tuần lễ. Trong ung thư đại trực tràng, việc xét nghiệm hàng loạt CEA huyết tương là một phương pháp không xâm lấn nhạy nhất để chẩn đoán tái phát của khối u sau phẫu thuật cắt bỏ khối u nguyên phát.
Đối với mỗi bệnh nhân, một giá trị CEA huyết tương ban đầu được xác định làm nền cho sự theo dõi sự diễn biến của bệnh. Khi giá trị CEA tăng dai dẳng ít nhất trên 2 tháng, có khả năng ung thư bị tái phát.
Nếu CEA tăng lên trong dịch cơ thể thì rất có thể khối ung thư đã xâm lấn sang các vùng lân cận hoặc di căn đến các vùng tương ứng của cơ thể. Ví dụ, nếu CEA được phát hiện tăng trong dịch chọc dò màng phổi thì có thể ung thư đã di căn lên phổi, màng phổi; nếu CEA được phát hiện tăng trong dịch màng bụng thì có thể ung thư đã di căn vào phúc mạc; nếu CEA được phát hiện tăng trong dịch não tủy thì có thể ung thư đã di căn vào tủy sống hoặc não.
Trong các ung thư khác như ung thư biểu mô dạ dày, thực quản, tụy, phổi, buồng trứng, tuyến giáp thể tủy… Giá trị CEA chỉ tăng khi ung thư tiến triển, tỷ lệ tăng là khoảng 50-70% số các trường hợp .
Ngoài ra, giá trị CEA cũng có thể tăng ở một số bệnh lành tính, gây nên hiện tượng dương tính giả, chẳng hạn như khi viêm phổi, khí phế thũng, viêm gan, xơ gan, viêm loét dạ dày tá tràng, viêm loét đại tràng, polyp trực tràng, bệnh vú lành tính…
Cần lưu ý rằng không phải tất cả các loại ung thư đều sản xuất CEA và tăng nồng độ CEA không phải lúc nào cũng do ung thư nên CEA không được khuyến cáo để sàng lọc trong cộng đồng dân cư không triệu chứng. Đối với nhóm bệnh nhân ung thư đại trực tràng thì định lượng nồng độ CEA được khuyến cáo chỉ định trước và 3 tháng/lần trong vòng 2 năm đầu sau phẫu thuật.
Thực hiện: TS.Nguyễn Việt Long [external_footer]