Aphrodite (tiếng Hy Lạp: Ἀφροδίτη) là nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với tình yêu, sắc đẹp, niềm vui và phồn thực. Vị thần còn gắn liền với Kim Tinh, hành tinh được đặt theo tên của nữ thần La Mã Venus dựa trên Aphrodite. Các biểu tượng chính của Aphrodite bao gồm hương đào, hoa hồng, chim bồ câu, chim sẻ và thiên nga. Tục thờ cúng Aphrodite phần lớn bắt nguồn từ nữ thần Phoenicia Astarte, cùng nguồn gốc với nữ thần Đông Semit Ishtar, chính vị này có giáo phái dựa trên tôn giáo Sumer thờ phụng nữ thần Inanna. Các trung tâm sùng bái chính của Aphrodite ở Cythera, Síp, Corinth và Athens. Lễ hội chính tôn vinh nữ thần là Aphrodisia, được tổ chức hàng năm vào hạ chí. Ở Laconia, Aphrodite được tôn thờ là một nữ thần chiến binh. Bà cũng là nữ thần bảo trợ của mại dâm, điều khiến những học giả ban đầu đề xuất khái niệm “mại dâm thiêng liêng”, một ý niệm mà hiện nay thường bị coi là sai lầm.
Theo Theogonía của Hēsíodos, Aphrodite sinh ra ngoài khơi Cythera từ bọt biển (aphros) tạo ra từ bộ phận sinh dục của thần Uranus, mà con trai của ông Cronus đã cắt đứt và ném xuống biển. Tuy nhiên, trong Iliad của Hómēros, bà là con gái của Zeus và Dione. Plato, trong Symposium, khẳng định rằng hai nguồn gốc này thực sự thuộc về các thực thể riêng biệt: Aphrodite Ourania và Aphrodite Pandemos. Aphrodite có nhiều tính ngữ khác, mỗi tính ngữ nhấn mạnh một khía cạnh của cùng một nữ thần, hoặc được sử dụng bởi nhiều tôn giáo địa phương khác nhau. Do đó, bà còn được gọi là Cytherea và Cypris, do cả hai địa điểm đều tự nhận là nơi khai sinh của vị nữ thần.
Trong thần thoại Hy Lạp, Aphrodite kết hôn với Hephaestus, vị thần của thợ rèn và gia công kim loại. Mặc dù vậy, Aphrodite thường không chung thủy; trong sử thi Odýsseia, bà bị bắt gặp ngoại tình với Ares, vị thần chiến tranh. Trong bài thánh ca Homeric đầu tiên cho Aphrodite (First Homeric Hymn to Aphrodite), bà quyến rũ người chăn cừu trần thế Anchises. Aphrodite cũng là người mẹ thay thế và là người yêu của người chăn cừu phàm trần Adonis, người đã bị giết bởi một con lợn rừng. Cùng với Athena và Hera, Aphrodite là một trong ba nữ thần có mối thù truyền kiếp khi bắt đầu cuộc chiến thành Troia và cô đóng vai trò chính trong suốt Iliad. Aphrodite đã xuất hiện trong nghệ thuật phương Tây như là một biểu tượng của vẻ đẹp phụ nữ và đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm của văn học phương Tây. Bà là một vị thần lớn trong các tôn giáo Tân Pagan hiện đại, bao gồm Giáo hội Aphrodite, Wicca và Hellenismos.
Nhà thơ Hēsíodos cho rằng danh xưng Aphrodite bắt nguồn từ aphrós (ἀφρός) “bọt biển”, nên cả cụm từ có nghĩa là “trỗi dậy từ bọt”,[5] nhưng giới học giả hiện đại phần lớn bác bỏ cách giải thích dân gian này. Các nhà nghiên cứu thần thoại cổ điển thời cận đại cho rằng Aphrodite là một từ gốc Hy Lạp hoặc gốc của một ngôn ngữ Ấn-Âu nào đó, nhưng giả thuyết này hiện chưa được công nhận chính thức. Cái tên Aphrodite thường được cho là có gốc từ một ngôn ngữ Semit chứ không phải Hy Lạp, nhưng dẫn xuất chính xác của nó chưa thể được xác định.
Bạn đang đọc: Aphrodite – Wikipedia tiếng Việt
Các học giả vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX chấp nhận cách giải nghĩa “bọt” của Hēsíodos và phân tích phần thứ hai của Aphrodite là *-odítē “kẻ lang thang”[7] hoặc *-dítē “sáng”.[8][9] Nhà ngôn học Michael Janda ủng hộ luận điểm của Hēsíodos và cho rằng câu chuyện về sự ra đời từ bọt là một thần thoại gốc Ấn-Âu. Tương tự như vậy, nhà ngôn học người Ba Lan Witczak cho rằng cái tên này là một từ ghép Ấn-Âu của *-abʰor“rất” và *-dʰei“tỏa sáng”, có liên hệ với tên của thần Eos. Nhiều học giả khác cho rằng giả thuyết này không thể đúng được vì các thuộc tính của Aphrodite hoàn toàn khác biệt so với thần Eos và vị thần Vệ đà Ushas.
Một số cách giải thích từ nguyên phi-Hy Lạp cũng đã được đề xuất. Giả thuyết từ nguyên Semit đối chiếu Aphrodite với danh từ barīrītu trong tiếng Assyria, tên của một con quỷ nữ xuất hiện trong các văn bản Trung Babylon và Hậu Babylon.[15] Hammarström[16] đối chiếu Aphrodite với từ (e)prϑni “chúa tể” trong tiếng Etrusca, một kính ngữ được vay mượn sang tiếng Hy Lạp thành ra từ πρύτανιρύτ. Nếu điều này là đúng thì các cái tên thần linh này đều bắt nguồn từ một kính ngữ mang nghĩa “người phụ nữ”. Hầu hết các học giả bác bỏ thuyết này, đặc biệt là do Aphrodite đã được vay mượn sang tiếng Etrusca thành Apru từ trước rồi (bắt nguồn từ Aphrō của tiếng Hy Lạp). Cuốn Etymologicum Magnum thời Trung Cổ (khoảng năm 1150) cung cấp một cách giải nghĩa nữa, cho rằng Aphrodite bắt nguồn từ habrodíaitos (ἁβροδίαιτος), “cô ấy sống tinh tế”, một từ ghép của habrós và díaita. Sự biến đổi âm b thành ph được giải thích là một đặc điểm “quen thuộc” của tiếng Hy Lạp “hiển nhiên là từ tiếng Macedonia Cổ”.[20]
Mục lục bài viết
Nữ thần tình yêu vùng Cận Đông[sửa|sửa mã nguồn]
Hình nhân khỏa thân của Ishtar từ Susa, thiên niên kỷ thứ 2 TCN, mô tả bà đội vương miện và nắm chặt hai bầu vúTượng Aphrodite đầu thế kỷ thứ 5 TCN từ Cyprus, miêu tả bà đội vương miện hình tròn trụ và tay mang con chim bồ câu
Giáo phái Aphrodite ở Hy Lạp bắt nguồn hoặc chịu ảnh hưởng của giáo phái Astarte ở Phoenicia, chính nó cũng bị ảnh hưởng từ giáo phái thờ nữ thần “Ishtar” của các dân tộc Semit Đông và nữ thần “Inanna” của người Sumer. Nhà địa lý Hy Lạp Pausanias viết rằng những người đầu tiên thành lập giáo phái Aphrodite là dân Assyria, sau đó mới đến người Paphia của Đảo Síp rồi tới người Phoenicia tại Ascalon. Sau này, người Phoenicia truyền bá tôn giáo này sang đảo Kythira.[26]
Aphrodite tiếp nhận mối liên hệ của Inanna-Ishtar với tình dục và sinh sản. Ngoài ra, bà còn được biết đến với cái tên Ourania (Οὐρανία), nghĩa là “thuộc về bầu trời”, một danh hiệu tương ứng với vai trò nữ hoàng bầu trời của thần Inanna. Các chân dung nghệ thuật và văn học ban đầu của Aphrodite cực kỳ giống với Inanna-Ishtar. Tương tự như Inanna-Ishtar, Aphrodite là một nữ thần chiến binh Pausanias chép rằng người Sparta thờ phụng bà với cái tên Aphrodite Areia, nghĩa là giống chiến tranh. Ông còn kể rằng các bức tượng sùng bái cổ xưa nhất của Aphrodite ở Sparta và Kythira cầm vũ khí. Các học giả hiện đại nhận thấy rằng khía cạnh nữ thần chiến binh của Aphrodite xuất hiện trong tầng lớp cổ nhất và nó cho thấy rõ ràng rằng bà có nguồn gốc Cận Đông.
Các học giả cổ xưa thế kỷ XIX có ác cảm với quan điểm cho rằng tôn giáo Hy Lạp cổ đại trọn vẹn chịu ảnh hưởng tác động của những nền văn hóa truyền thống Trung Đông, nhưng, ngay cả nhà khảo cổ Friedrich Gottlieb Welcker, người cho rằng ảnh hưởng tác động của văn hóa truyền thống Trung Đông so với văn hóa truyền thống Hy Lạp hầu hết bị số lượng giới hạn chỉ ở nền văn hóa truyền thống vật chất, vẫn phải thừa nhận rằng Aphrodite có nguồn gốc Phoenicia. Ảnh hưởng của văn hóa truyền thống Trung Đông lên tôn giáo Hy Lạp sơ khai nói chung và giáo phái Aphrodite nói riêng được công nhận mở màn từ quy trình tiến độ phương Đông hóa vào thế kỷ thứ XIII TCN, khi Hy Lạp cổ đại nằm ở rìa của đế quốc Tân Assyria .
Nữ thần bình minh Ấn-Âu[sửa|sửa mã nguồn]
Một số nhà so sánh thần thoại buổi đầu phản đối quan điểm nguồn gốc Cận Đông của nữ thần và cho rằng Aphrodite là một khía cạnh của nữ thần bình minh Hy Lạp Eos và do đó, bà gốc gác là nữ thần bình minh Ấn-Âu nguyên thủy Hausos (tiếng Hy Lạp Eos, tiếng La-tinh Aurora, tiếng Phạn Ushas). Hầu hết học giả hiện đại bác bỏ quan niệm Aphrodite hoàn toàn chính gốc Ấn-Âu, nhưng Aphrodite, ban đầu là một vị thần của người Semit, có lẽ đã bị ảnh hưởng bởi nữ thần bình minh Ấn-Âu. Cả Aphrodite và Eos đều được mô tả với vẻ đẹp gợi tình và tính dục mạnh mẽ và cả hai vị thần đều có mối quan hệ với những người tình trần thế. Cả hai vị thần đều có liên kết với các màu đỏ, trắng và vàng. Michael Janda cho rằng tên của Aphrodite bắt nguồn từ tên Eos mang nghĩa “cô ấy trỗi dậy từ bọt [của đại dương]” và chỉ ra rằng tác phẩm Thần Phả của Hēsíodosm có kể về sự ra đời của Aphrodite, minh chứng cho một thần thoại Ấn-Âu cổ xưa. Aphrodite trồi lên khỏi đại dương sau khi Cronos đánh bại Ouranos có sự tương đồng với huyền thoại trong Rigveda về thần sấm Indra đánh bại con quỷ Vrtra và giải phóng Ushas, vị thần của rạng đông trong đạo Hindu. Một điểm tương đồng quan trọng khác giữa Aphrodite và nữ thần bình minh Ấn-Âu là mối quan hệ họ hàng gần gũi của bà với thần bầu trời Hy Lạp, vì cả hai vị thần được cho là cha của bà (Zeus và Uranus) đều là các vị thần bầu trời.
Các biến thể của nữ thần và tên gọi[sửa|sửa mã nguồn]
Aphrodite Ourania, vận y phục và đứng trên mai Louvre), vận y phục và đứng trên mai rùaStockholmHerma Hy Lạp cổ đại của Aphroditus, dạng đàn ông của Aphrodite, hiện đang nằm trong bộ sưu tầm của Nationalmuseum
Tên gọi văn hóa phổ biến nhất của Aphrodite là Ourania, nghĩa là “thuộc về bầu trời”, nhưng cái tên này hầu như không xuất hiện trong các tác phẩm văn học, biểu hiện một ý nghĩa văn hóa thuần túy. Một tên gọi khác của Aphrodite là Pandemos (“dành cho tất cả dân gian”). Trong vai trò Aphrodite Pandemos, Aphrodite được liên kết với Peithō (Πείθω), nghĩa là “sự thuyết phục”, và dân chúng có thể cầu phúc để được quyến rũ hơn. Platon trong tác phẩm Symposium cho rằng Ourania và Pandemos là những nữ thần riêng biệt. Ông khẳng định rằng Aphrodite Ourania là Aphrodite thuộc về bầu trời, được sinh ra từ bọt biển sau khi Cronus thiến Uranus, và lớn tuổi nhất trong hai nữ thần. Cúng theo Symposium, Aphrodite Ourania là nguồn cảm hứng của ham muốn tình dục đồng giới nam, cụ thể là eros (tình yêu) ephebic (lời thề ephebic) và thiếu niên ái. Aphrodite Pandemos trẻ nhất trong hai nữ thần: Aphrodite này được sinh ra từ Zeus và Dione, là nguồn cảm hứng của ham muốn dị tính luyến ái.[52][53]
Trong số những người theo chủ nghĩa Tân Platon và Cơ đốc sau này, Ourania gắn liền với tình yêu thiêng liêng còn Pandemos gắn liền với tình yêu thể xác. Hình tượng Ourania tựa đôi chân bà trên mai rùa được coi là biểu tượng của sự tự do trong tình yêu vợ chồng; nó cũng là chủ đề của một tác phẩm điêu khắc chryselephantine (ghép của hai từ χρυσός, chrysós, ‘vàng’ và ελεφάντινος, elephántinos, ‘ngà’) của Phidias dành cho Elis, chỉ được biết đến từ một nhận xét qua loa của Pausanias.[54]
Một trong những tên gọi trong văn học phổ biến nhất của Aphrodite là Philommeidḗs (φιλομμειδής) (φιλομμειδής), nghĩa là “tình yêu mỉm cười”) nhưng đôi khi bị dịch sai thành “tình yêu tiếng cười”. Tên gọi này xuất hiện xuyên suốt trong cả hai sử thi Homeros và Bài thánh ca Homeros đầu tiên cho Aphrodite. Hesiodos từng nhắc đến tên này một lần trong tác phẩm Theogony của ông về cảnh Aphrodite ra đời, ông giải nghĩa tên này là “tình yêu bộ phận sinh dục” hơn là “tình yêu nụ cười”. Monica Cyrino cho rằng; sở dĩ có tên đó là vì trong các miêu tả nghệ thuật về Aphrodite, bà thường nở một nụ cười. Các tên gọi văn học phổ biến khác là Cypris và Cythereia, do mối liên hệ của bà với đảo Síp và Cythera.
Ở Síp, Aphrodite đôi khi được gọi là Eleemon (“người nhân hậu”). Tại Athens, bà được biết đến với cái tên Aphrodite en kopois (“Aphrodite của các khu vườn”). Tại Cape Colias, một thị trấn dọc bờ biển Attic, bà được tôn sùng với tên Genetyllis “Mẹ”. Người Sparta gọi bà là Potnia “Bà chủ”, Enoplios “Vũ trang”, Morpho “Tư dung quyến rũ”, Ambologera “Cô ấy là người trì hoãn tuổi già”. Trên khắp thế giới Hy Lạp, bà được biết đến với các tên như Melainis “Kẻ đen”, Skotia “Kẻ đen tối”, Androphonos “Kẻ giết người”, Anosia “Tội lỗi”, và Tymborychos “Kẻ đào huyệt”, cho thấy bản chất đen tối hơn, bạo lực hơn của nữ thần.
Thời cổ xưa[sửa|sửa mã nguồn]
Tàn tích của đền thờ Aphrodite tại AphrodisiasNgày vinh danh Aphrodite hằng năm là lễ Aphrodisia, được tổ chức triển khai trên khắp Hy Lạp, đặc biệt quan trọng quan trọng ở thành Athens và Corinth. Tại Athens, lễ Aphrodisia được tổ chức triển khai vào ngày thứ tư của tháng Hekatombaion để tôn vinh công đức của nữ thần trong việc thống nhất Attica. Trong buổi lễ, những thầy tế của Aphrodite sẽ thanh tẩy đền thờ Aphrodite Pandemos trên sườn phía tây nam của Acropolis bằng máu của một con chim bồ câu bị tế lễ. Tiếp theo, những bàn thờ cúng sẽ được xức dầu và những bức tượng của Aphrodite Pandemos và Peitho sẽ được diễu hành trong một đám rước hùng vĩ đến nơi mà chúng sẽ được tắm rửa theo nghi thức. Aphrodite còn được vinh danh ở Athens trong lễ Arrhephoria. Ngày thứ tư hàng tháng là ngày thiêng liêng so với Aphrodite .
Pausanias ghi lại rằng, ở Sparta, Aphrodite được tôn thờ với tên Aphrodite Areia, có nghĩa là “hiếu chiến”. Điều này nhấn mạnh mối quan hệ của Aphrodite với Ares, tình nhân của bà. Pausanias cũng ghi lại rằng, ở Sparta[33][34] và trên đảo Cythera, một số bức tượng thờ thần Aphrodite cực kỳ cổ xưa miêu tả bà cầm vũ khí. Các bức tượng sùng bái khác còn mô tả bà bị trói buộc trong xiềng xích.
Aphrodite là nữ thần bảo trợ của tổng thể những loại mại dâm, từ pornai ( gái mại dâm đường phố rẻ tiền thường là nô lệ cho giới ma cô phong phú ) đến hetairai ( những người giải khuây làm thuê đắt tiền, được giáo dục tốt, thường là lao động tự do và nhiều lúc cung ứng tình dục cho người mua của họ ). Thành bang Corinth trứ danh khắp quốc tế cổ đại với nhiều hetairai, những người có tiếng tăm mại dâm tay nghề cao nhất nhưng cũng đắt nhất quốc tế Hy Lạp. Corinth chiếm hữu một ngôi đền lớn thờ Aphrodite nằm trên Acrocorinth, và là một trong những TT chính của giáo phái nữ thần., Rất nhiều ghi chép về Aphrodite được triển khai bởi những triều thần còn sống sót trong những bài thơ và trong những bản khắc trên gốm. Các văn liệu về Aphrodite tương quan đến mại dâm được tìm thấy ở Corinth cũng như trên những hòn đảo Cyprus, Cythera và Sicily. Tiền thân của Aphrodite, nữ thần Lưỡng Hà Inanna-Ishtar cũng có tương quan đến mại dâm .
Thời Hy Lạp hóa và La Mã[sửa|sửa mã nguồn]
Tranh chạm nổi của nữ thần tại Aphrodisias, mô tả một Aphrodite bị ảnh hưởng của La Mã đang ngồi trên ngai, tay mang một đứa bé trong khi chàng chăn cừu Anchises đứng cạnh bà. Carlos Delgado; CC-BY-SA.
Thời kỳ Hy Lạp hóa, người Hy Lạp thống nhất Aphrodite với những nữ thần Ai Cập cổ đại là Hathor và Isis. [ 72 ] Aphrodite là nữ thần bảo trợ của những nữ hoàng triều Ptolemy và Nữ hoàng Arsinoe II coi mình là hiện thân trần gian của bà. Aphrodite được thờ ở thành Alexandria và có rất nhiều đền thờ trong và xung quanh thành phố. Arsinoe II tuyên truyền giáo phái Adonis đến Alexandria. Tessarakonteres, một tàu hai thân du ngoạn khổng lồ do Archimedes phong cách thiết kế cho vua Ptolemy IV Philopator, có một ngôi đền hình tròn trụ tôn vinh Aphrodite trên đó với một bức tượng nữ thần bằng đá cẩm thạch. Vào thế kỷ thứ hai TCN, vua Ptolemy VIII Physcon cùng hai vợ Cleopatra II và Cleopatra III cho xây một ngôi đền cho Aphrodite Hathor tại Philae. Những bức tượng của Aphrodite để thờ kính cá thể trở nên phổ cập ở Ai Cập mở màn từ đầu thời Ptolemy và lê dài cho đến rất lâu sau khi Ai Cập trở thành một tỉnh của La Mã .
Người La Mã cổ đại coi Aphrodite tương đưong với nữ thần Venus của họ, vốn là nữ thần của sự phì nhiêu nông nghiệp, thảm thực vật và mùa xuân. Theo nhà sử học La Mã Livy, Aphrodite và Venus chính thức được xác định vào thế kỷ thứ 3 TCN khi tín ngưỡng thờ Venus Erycina được du nhập vào La Mã từ thánh địa Aphrodite của Hy Lạp trên núi Eryx ở Sicily. Sau thời điểm này, người La Mã hấp thụ biểu tượng và thần thoại của Aphrodite vào nữ thần Venus của họ. Vì Aphrodite là mẹ của anh hùng thành Troia Aeneas trong thần thoại Hy Lạp và huyền thoại La Mã cho rằng Aeneas là người sáng lập ra Rome, Venus được tôn là Venus Genetrix, mẹ của toàn bộ La Mã. Julius Caesar tự nhận mình là hậu duệ trực tiếp từ Iulus, con trai của Aeneas và ủng hộ mạnh mẽ việc sùng bái thần Venus. Điều này sau đó được tiếp nối bởi cháu trai của ông là hoàng đế Augustus và các hoàng đế kế vị ông.
Chủ nghĩa đồng điệu này đã ảnh hưởng tác động rất nhiều đến sự tôn thờ Aphrodite của người Hy Lạp. Trong thời kỳ La Mã, những tôn giáo của Aphrodite ở nhiều thành phố Hy Lạp mở màn nhấn mạnh vấn đề mối quan hệ của bà với thành Troia và Aeneas. Họ cũng khởi đầu thêm những yếu tố La Mã vào, miêu tả Aphrodite mẫu tử hơn, quân phiệt hơn và chăm sóc hơn đến cỗ máy hành chính. Bà được nhiều quan chức tôn xưng là thần hộ mệnh. Sự Open của Aphrodite trong văn học Hy Lạp cũng rất thông dụng, thường biểu lộ Aphrodite theo cách của người La Mã .
Thần thoại về Aphrodite[sửa|sửa mã nguồn]
Aphrodite thường được cho là sinh ra ở Paphos, nằm trên hòn đảo Síp, đó là nguyên do tại sao nhiều lúc bà được gọi là ” người Cypria “, đặc biệt quan trọng là trong những tác phẩm thơ mộng của Sappho. Tuy nhiên, có dị bản khác nói rằng bà sinh ra ở gần hòn đảo Cythera, do đó bà cũng có tên ” Cytherea “. [ 79 ] ] Cythera là điểm giao thương mua bán và giao thoa văn hóa truyền thống giữa hai hòn hòn đảo Crete và Peloponesus, [ 80 ] thế cho nên những câu truyện này hoàn toàn có thể vẫn lưu giữ dấu vết của hướng lan truyền giáo phái Aphrodite từ Trung Đông sang đại lục Hy Lạp .
Theo Hesiod chép trong Theogony,[82] Cronus cắt đứt dương vật của Uranus rồi ném nó xuống biển. Bọt từ bộ phận sinh dục của ông đã tạo ra Aphrodite (Hesiod cho hay tên của Aphrodite bắt nguồn từ đây), còn những người khổng lồ, Erinyes và Meli nổi lên từ những giọt máu của ông. Hesiod kể rằng dương vật của vị thần “trôi dạt trên biển một thời gian dài và bọt trắng nổi lên từ da thịt bất tử; từ nó có một cô gái dần lớn lên.” Phiên bản của Hesiod về sự ra đời của Aphrodite sau khi Uranus bị thiến có lẽ bắt nguồn từ Khúc ca của Kumarbi, một bài thơ sử thi của người Hitti cổ đại nói về vị thần Kumarbi lật đổ cha mình là Anu và cắn đứt bộ phận sinh dục của ông, khiến ông mang thai và sinh ra những đứa con của Anu, bao gồm Ishtar và anh trai Teshub, thần bão Hitti.
Trong Iliad,[88] Aphrodite là con gái của Zeus và Dione. Tên của Dione dường như là một từ giống cái của Dios và Dion, những dạng gián tiếp của tên thần Zeus. Zeus và Dione cùng được thờ phụng ở Dodona tây bắc Hy Lạp. Trong Theogony, Hesiod mô tả Dione là một Oceanid.
Tranh khảm La Mã thế kỷ I của Mars và Venus từ cổ trấn Pompeii
Aphrodite luôn được miêu tả là một người phụ nữ trưởng thành gợi dục, vô cùng ham muốn, không có tuổi thơ. Bà thường được mô tả khỏa thân. Trong Iliad, Aphrodite là vợ chưa kết hôn của Ares, thần chiến tranh, và vợ của Hephaestus là một nữ thần khác tên Charis. Trong Theogony của Hesiod, Aphrodite chưa lập gia đình và vợ của Hephaestus là Aglaea, trẻ nhất trong ba Charites.
Tuy nhiên, trong Cuốn 8 của Odyssey, ca sĩ mù Demodocus mô tả Aphrodite là vợ của Hephaestus và kể về việc bà ngoại tình với Ares trong cuộc chiến thành Troia. Thần mặt trời Helios nhìn thấy Aphrodite và Ares ân ái trên giường của Hephaestus bèn báo cho Hephaestus để tạo ra một cái lưới vàng. Lần tiếp theo khi Ares và Aphrodite quan hệ với nhau, tấm lưới bắt được cả hai người họ. Hephaestus mời tất cả các vị thần vào phòng ngủ để cười nhạo những kẻ ngoại tình bị bắt tại trận, nhưng Apollo, Hermes và Poseidon thương cảm cho Ares nên Poseidon trả tiền chuộc cho Hephaestus để thả Ares. Nhục nhã, Aphrodite trở về đảo Síp, nơi bà được các Charites chào đón. Câu chuyện này có lẽ bắt nguồn từ một sự tích dân gian Hy Lạp, ban đầu độc lập, không liên quan tới sử thi Odyssey.
Những câu chuyện sau đó được sáng tác để giải thích cuộc hôn nhân của Aphrodite với Hephaestus. Trong câu chuyện nổi tiếng nhất, Zeus đã vội vàng gả Aphrodite cho Hephaestus để ngăn các vị thần khác cạnh tranh để giành lấy bà. Trong một dị bản khác, Hephaestus đã dâng cho mẹ mình Hera một ngai vàng, nhưng khi ngồi lên nó, bà bị mắc kẹt và anh từ chối để bà đi trừ khi bà đồng ý gả Aphrodite cho anh trong hôn nhân. Hephaestus mừng rỡ khi được kết hôn với nữ thần sắc đẹp và đã tạo ra những món đồ trang sức tuyệt đẹp cho vị thần, bao gồm một cái strophion (στρόφιον, yếm Hy Lạp) gọi là κεστὸν ἱμάντα, áo lót có hình dạng bắt chéo (thường được dịch là “dây nịt”), làm lộ ra bộ ngực của nàng và làm cho nàng càng trở nên không thể cưỡng lại đối với cánh đàn ông. Cái strophion như vậy thường được mô tả trong các bức họa vẽ các nữ thần Cận Đông Ishtar và Atargatis.
Bài thánh ca Homeric đầu tiên cho Aphrodite (Bài thánh ca 5), có lẽ được sáng tác vào khoảng giữa thế kỷ thứ bảy TCN,[122] mô tả cách Zeus từng trở nên khó chịu với Aphrodite vì khiến các vị thần phải lòng người phàm trần,[122] do vậy ông đã khiến nàng phải lòng Anchises, một người chăn cừu đẹp mã sống dưới chân núi Ida gần thành Troia.[122] Aphrodite xuất hiện trước Anchises dưới hình dạng một trinh nữ cao ráo, xinh đẹp, trong khi anh đang ở một mình trong nhà.[123] Anchises nhìn thấy nữ thần mặc quần áo sáng màu và trang sức lấp lánh, với bộ ngực tỏa sáng một ánh hào quang thần thánh.[124] Anh hỏi rằng liệu nàng ta có phải là Aphrodite hay không và hứa sẽ xây cho nàng một đền thờ trên đỉnh núi nếu nàng ban phước cho anh và gia đình anh.
Aphrodite nói dối rằng nàng không phải là nữ thần, mà là con gái của một trong những mái ấm gia đình quý tộc tại Phrygia. Nàng lý giải rằng mình hoàn toàn có thể hiểu ngôn từ Troia vì nàng được một nhũ mẫu người Troia nuôi nấng khi còn nhỏ và nói thêm rằng nàng bị Hermes bắt cóc rồi mang tới đây trong lúc đang nhảy múa tại một lễ tôn vinh Artemis, nữ thần của trinh tiết. ] Aphrodite nói với anh ta rằng nàng vẫn còn trinh tiết và cầu xin anh ta đưa ra mắt cha mẹ. Anchises ngay lập tức ngập tràn trong dục vọng điên cuồng và thề rằng sẽ ân ái với nàng. Anchises vác Aphrodite lên giường trải lông sư tử và gấu. Sau đó, anh lột trần và làm tình với nàng .
Sau khi đã ân ái xong, Aphrodite tiết lộ hình dạng thần thánh thực sự. Anchises sợ hãi, nhưng Aphrodite an ủi anh và hứa rằng nàng sẽ sinh cho anh ta một đứa con trai. Nàng tiên tri rằng con trai của họ sẽ là ác quỷ Aeneas, sẽ được nuôi dưỡng bởi các thần nữ của vùng hoang dã trong năm năm trước khi đến thành Troia để trở thành một nhà quý tộc như cha mình. Câu chuyện về sự thụ thai của Aeneas cũng được đề cập trong Theogony của Hesiod và trong Quyển II của Iliad’.[109]
aryballos Attic bởi Aison (k. 410 TCN) mô tả cảnh Aphrodite kết thân với BìnhAttic bởi Aison ( 410 TCN ) diễn đạt cảnh Aphrodite kết thân với Adonis, người đang ngồi và chơi đàn lia Eros đứng sau chàngMột phần của bình cưới Attic ( k. 430 – 420 TCN ), mô tả cảnh những phụ nữ trèo lên mái nhà mang theo ” vườn của Adonis “
Truyền thuyết về Aphrodite và Adonis có lẽ bắt nguồn từ truyền thuyết của người Sumer cổ đại về Inanna và Dumuzid. Tên tiếng Hy Lạp ἌδωἌδως (Adōni, phát âm tiếng Hy Lạp: [ádɔːni]) có nguồn gốc từ từ Canaan ʼadōn, có nghĩa là “chúa tể”. Nguồn văn học Hy Lạp đầu tiên về Adonis xuất phát từ một đoạn thơ của nữ thi sĩ đồng tính Sappho, có niên đại từ thế kỷ thứ bảy TCN, trong đó có một điệp khúc của các cô gái trẻ hỏi Aphrodite họ có thể làm gì để thương tiếc cái chết của Adonis. Aphrodite trả lời rằng họ phải đập ngực và xé áo dài. Các văn liệu sau đó có nói thêm về câu chuyện với nhiều chi tiết hơn: Adonis là con trai của Myrrha, người bị Aphrodite nguyền rủa với lòng ham muốn vô độ đối với cha mình, Vua Cinyras của Síp, sau khi mẹ của Myrrha khoe khoang rằng con gái mình đẹp hơn cả nữ thần. Bị đuổi ra ngoài sau khi mang thai, Myrrha biến thành cây một dược (Myrrh), nhưng vẫn sinh ra Adonis.
Aphrodite tìm thấy đứa bé và đưa nó xuống âm ti để được Persephone nuôi dưỡng. Bà quay lại khi anh ta trưởng thành và phát hiện ra anh ta rất đẹp trai. Persephone muốn giữ Adonis, dẫn đến một đại chiến giành quyền nuôi con giữa hai nữ thần. Zeus xử lý tranh chấp bằng cách đồng ý chấp thuận cho Adonis dành một phần ba năm của anh ở với Aphrodite, một phần ba với Persephone và một phần ba với bất kể ai anh chọn. Adonis đã chọn dành thời hạn đó với Aphrodite. Sau đó, một ngày nọ, khi Adonis đang đi săn, anh ta bị thương bởi một con lợn rừng và chết trong vòng tay của Aphrodite .
Trong các phiên bản khác nhau của câu chuyện, con lợn rừng là do Ares gửi đến, vị thần ghen tị rằng Aphrodite đã dành quá nhiều thời gian với Adonis, hoặc bởi Artemis, người muốn trả thù Aphrodite vì đã giết chết người bầy tớ tận tụy của bà là Hippolytus. Câu chuyện cũng cung cấp một nguyên nhân cho sự liên kết của Aphrodite với những bông hoa nhất định. Được biết rằng, khi bà thương tiếc cái chết của Adonis, bà đã tạo ra hoa phong quỳ ở bất cứ nơi nào máu anh rơi xuống, và tuyên bố một lễ hội vào ngày mất của anh. Trong một phiên bản của câu chuyện, Aphrodite tự làm mình bị thương với một cái gai từ một bụi hoa hồng và bông hoa hồng đó, trước đây có màu trắng, giờ đã bị nhuộm đỏ bởi máu của bà. Theo De Dea Syria (Nữ thần Syria) của Lucian, mỗi năm trong lễ hội Adonis, sông Adonis ở Lebanon (nay là sông Abraham) chảy máu đỏ.
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://bem2.vn
Category: TỔNG HỢP