vai trò và ứng dụng của các quy luật của cảm giác và tri giác trong cuộc sống
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.84 KB, 13 trang )
Bạn đang đọc: vai trò và ứng dụng của các quy luật của cảm giác và tri giác trong cuộc sống – Tài liệu text
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA: Kế toán và quản trị kinh doanh
BÀI TẬP
MÔN: Tâm lý học đại cương
Họ và tên: Nguyễn Bình
Đề bài:
Câu 1: Hãy nêu vai trò và ứng dụng của các quy luật của cảm giác và tri giác trong
cuộc sống? Lấy ví dụ minh họa?
Câu 2: Tại sao nói tư duy xuất phát từ hoàn cảnh có vấn đề? Lấy ví dụ và phân tích
ví dụ đó?
Hà Nội, tháng 9 năm 2013
Bài làm
Câu 1: Vai trò và ứng dụng của các quy luật của cảm giác và tri giác trong đời
sống:
I.Cảm giác:
1. Định nghĩa:
Cảm giác là quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, bề ngoài của sự vật
hiện tượng cụ thể đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
2. Các quy luật cơ bản của cảm giác:
a. Quy luật ngưỡng cảm giác:
Ngưỡng cảm giác là giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác.
Ngưỡng cảm giác có hai loại: ngưỡng cảm giác phía trên và ngưỡng cảm giác phía
dưới.
– Ngưỡng cảm giác phía trên: là cường độ kích thích tối đa mà ở đó vẫn còn cho ta
cảm giác.
– Ngưỡng cảm giác phái dưới: là cường độ kích thích tối thiểu đủ để gây cảm giác
Chẳng hạn đối với cảm giác nhìn ngưỡng dưới của mắt là những sóng ánh sáng có
bước sóng 390 milimicron và ngưỡng trên 780 milimicron, vùng phản ánh tốt nhất 565
milimicoron của cảm giác nghe là 1000hec.
– Phạm vi giữa ngưỡng cảm giác phía trên và ngưỡng cảm giác phía dưới là vùng
cảm giác được trong đó có một vùng phản ánh tốt nhất.
– Ngưỡng sai biệt là mức độ chênh lệch là mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ
hoặc tính chất giữa hai kích thích đủ để phân biệt sự khác nhau giữa cá kích thích.
Ngưỡng sai biệt của cảm giác là một hằng số.
Ví dụ:
+ Cảm giác thị giác: 1/100
+ Cảm giác thính giác: 1/10
+ Cảm giác sức ép trọng lượng, vị ngọt 1/30
– Ănghen nói: “ Con đại bàng nhìn xa hơn người nhiều, nhưng mắt người phân biệt
được nhiều sự vật hơn mắt đại bàng”.
Độ nhạy cảm của cảm giác là khả năng cảm nhận được cường độ kích thích tối
thiểu, tức là nhận ra được ngưỡng cảm giác, ngưỡng cảm giác phía dưới càng nhỏ thì
độ nhạy cảm của cảm giác càng cao. Độ nhạy cảm của cảm giác tỉ lệ nghịch với
ngướng cảm giác pháia dưới.
Độ nhạy cảm sai biệt của cảm giác là khả năng cảm nhận được sự khác biệt về
cường độ, tính chất của hai kích thích, tức là nhận ra được ngưỡng sai biệt của cảm
giác, ngươnngx sai biệt càng nhỏ thì độ nhạy cảm sai biệt của cảm giác càng cao. Độ
nhạy cảm sai biệt của cảm giác tỉ lệ nghịch với ngưỡng sai biệt.
Vai trò: Nhờ có ngưỡng cảm giác mà ta có thể lằng nghe thấy tiếng xe cộ chạy
ồn ào, có thể nhìn thấy mọi vật đang chuyển động và cũng có thể cảm nhận được thế
giới xung quanh luôn thay đổi.
Ví dụ: tai ta có thể nghe thấy được âm thanh trong khoảng từ 16Hz đến
20000Hz, âm thanh ta nghe được tốt nhất là ở 100Hz, dưới 16Hz âm thanh nhỏ quá
ngưỡng cảm giác nghe nên ta không thể cảm nhận được, trên 20000Hz âm thanh lúc
này quá lớn ta cũng không thể nghe thấy được.
b. Quy luật về sự thích ứng của cảm giác:
Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hơp với sự
thay đổi của cường độ kích thích.
– Cảm giác sẽ mất dần khi kích thích kéo dài
Ví dụ: Khi ta đeo vòng tay thì lâu ngày ta không còn cảm nhận được sức nặng của
nó như khi mới đeo nữa.
– Cường độ kích thích tăng thì độ nhạy cảm của cảm giác giảm.
Ví dụ: Từ chỗ tối bước qua chỗ sáng, phải qua một thời gian đợi cho tính nhạy cảm
của khí quan phân tích giảm xuống ta mới phân biệt được các vật chung quanh.
– Cường độ kích thích giảm thì độ nhạy cảm của cảm giác tăng.
Ví dụ: Hai bàn tay, một ngâm vào nước nóng, một ngâm vào nước lạnh sau đó
nhúng cả hai vào chậu nước bình thường thì bàn tay ngâm ở châu nước nóng cảm thấy
nước ở chậu lạnh hơn so với bàn tay kia.
Quy luật thích ứng có ở tất cả các loại cảm giác, nhưng mức độ thích ứng
không giống nhau:
– Có cảm giác thích ứng nhanh như: cảm giác nhìn, cảm giác đụng chạm…
– Có cảm giác thích ứng chậm như: cảm giác nghe, cảm giác đau ( khó thích ứng)
Khả nănng thích ứng của cảm giác có thể được phát triển do hoạt động và rèn
luyện.
c. Quy luật về sự tác động qua lại giữa các cảm giác:
Các cảm giác luôn tác động qua lại lẫn nhau và làm thay đổi tính nhạy cảm của
nhau. Cụ thể:
– Kích thích yếu lên một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm cảu cơ
quan phân tích kia.
Ví dụ: Những âm thanh nhẹ làm tăng thêm tình nhạy cảm nhìn.
– Kích thích mạnh lên một cơ quan phân tích này sẽ làm giảm độ nhạy cảm của một
cơ quan phân tích kia.
Ví dụ: Khi ta bị bệnh thì lúc ăn sẽ không có cảm giác ngon miệng.
Sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác có thể diễm ra đồng thời hay nối tiếp
trên những cảm giác còn loại hay khác loại. Do đó, có hai loại tương phản: tương phản
đồng thời và tương phản nối tiếp.
– Tương phản đồng thời là sự thay đổi cường độ và chất lượng của cảm giác dưới
ảnh hưởng của một kích thích cùng loại xảy ra đồng thời.
Ví dụ: Khi ta đặt hai tờ giấy trắng cùng loại, một trên nền giấy đen, một trên nền
giấy xám thì tờ giấy trắng trên nền giấy đen ta sẽ có cảm giác như nó trắng hơn so với
tờ giấy trên nền xám kia.
– Tương phản nối tiếp là sự thay đổi cường độ và chất lượng của cảm giác dưới ảnh
hưởng của một kích thích cùng loại xáy ra trước đó.
Ví dụ: Khi ta ngâm tay trong một chậu nước đá thì khi ta bỏ tay ra và ngay sau đó
ngâm vào một chậu nước ấm ta sẽ cảm giác chậu nước ấm rất nóng. Hay khi ta ăn một
cái kẹo ngọt sau đó ăn một quả chuối thì ta sẽ thấy quả chuối đó không ngọt như trước
nữa.
II. Tri giác:
1. Định nghĩa:
Tri giác là quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của
sự vật và hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.
2. Các quy luật cơ bản của tri giác:
a.Quy luật về tính đối tượng của tri giác:
Quá trình tri giác luôn phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan.
Sản phẩm của quá trình tri giác ( hình tượng ) một mặt phản ánh đặc điểm bề
ngoài của sự vật, hiện tượng mặt khác nó là hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan.
Ví dụ: Các chú bộ đội có thể tri giác được chiếc xe tăng dựa vào tiếng xích xe,
tiếng động cơ.
Đối tượng của thế giới được xuất hiện dần trong hoạt động.
Ví dụ: Người họa sĩ có thể tri giác bức tranh tốt hơn so với chúng ta ( họ có thể dễ
dàng nhận biết thể loại tranh cũng như ý nghĩa của bức tranh đó)
Tính đối tượng của tri giác có vai trò quan trọng – nó là cơ sở của chức năng
định hướng hành vi và hoạt động của con người.
Ứng dụng:
– Được dùng khi cần xác định đó là đối tượng gì phản ánh bản chất bên trong của
đối tượng.
– Nếu chỉ dựa trên những hình ảnh về đặc điểm mà sự vật hiện tượng đem lại thông
qua các giác quan khó có thể đem lại tri giác một cách đầy đủ, trọn vẹn.
– Ngược lại, chỉ dựa trên hiểu biết của vốn kinh nghiệm của bản thân mà vội vàng
đưa ra kết luận rất dễ dàng mắc sai lầm, thiếu chính xác trong quyết định.
b.Quy luật về tính lựa chọn của tri giác:
Tính lựa chọn cảu tri giác là quá trình tách đối tượng ra khỏi bối cảnh xung
quanh để phản ánh đối tượng tốt hơn.
– Bối cảnh là các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan bên ngoài đối
tượng tri giác. Đôiws tượng tri giác là hình, bối cảnh tri giác là nền, giữa đối tượng và
bối cảnh không cố định. Bối cảnh và đối tượng rõ ràng thì tri giác thuận lợi và ngược
lại ( ngụy trang).
Ví dụ:
Tính lựa chọn của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan ( của vật
kích thích ) và chủ quan ( chủ thể ).
Đối tượng của tri giác càng nổi rõ trong bối cảnh thì sự lựa chọn sẽ diểm ra
nhanh hơn và ngược lại.
Kinh nghiệm của chủ thể về loại đối tượng nào càng phong phú thì chủ thể dễ
chọn đối tượng đó làm tri giác.
Ví dụ: Trong sách để giúp học sinh ghi nhớ những kiến thức quan trọng, người ta
thường in nghiêng để nhấn mạnh. Hay giáo viên thường dùng bút đỏ để chấm bài giúp
học sinh có thể nhận ra chỗ sai của mình dễ dàng.
. Ứng dụng:
– Trang trí, bố cục…
– Trong giảng dạy, các thầy cô thường dùng bài giảng kết hợp với tài liệu trực quan
sinh động, yêu cầu học sinh làm bài tập điển hình, nhấn mạnh những phần quan trọng
giúp các học sinh tiếp thu bài.
c. Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác:
Khi tri giác một sự vật, hiện tượng con người có khả năng gọi tên, phân loại,
chỉ ra được công dụng, ý nghĩa của nố đối với hoạt động của bản thân.
Ví dụ: Khi đi mua hoa quả, ta có thể tri giác được đó là loại quả gì và có thể gọi tên
cũng như nói được những đặc điểm riêng biệt của quả đó. Chẳng hạn như ta có thể
phân biệt quả cam với quả bưởi, quả bưởi to hơn quả cam, mùi vị cũng khác nhau
Vai trò: giúp ta gọi tên ( con gì?, cái gì? ); biết công dụng, tính chất của sự vật,
hiện tượng; xếp loại và phân nhóm chúng
Tính có ý nghĩa của tri giác phụ thuộc vào khả năng tri giác trọn vẹn sự vật,
hiện tượng, vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm, khả năng ngôn ngữ, khả năng tư duy của
chủ thể.
Ứng dụng: Người ta dùng khả năng tri giác sự vật, hiện tượng của con người
để họ nhận biết được sảm phẩm, tính chất sự việc thống qua quảng cáo, nghệ thuât…
Tùy thuộc vào đặc điểm của nhóm khách hàng mà đưa ra những sản phẩm phù hợp.
d.Quy luật về tính ổn định của tri giác:
Tính ổn định cảu tri giác là khả năng phản ánh tương đối ổn định về sự vật,
hiện tượng khi điều kiện tri giác đã thay đổi.
Ví dụ: Khi viết lên trang giấy ta luôn thấy trang giấy có màu trắng mặc dù ta
viết dưới ánh đèn dầu, lúc trời tối.
Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào:
– Cấu trúc ổn định của sự vật hiện tượng
– Vốn tri thức, kinh nghiệm cảu cá nhân
– Cơ chế tự điều khiển của hệ thần kinh, cụ thể là mối liên hệ ngược của hệ thần
kinh.
Ví dụ: một đứa trẻ đứng gần ta và một người lớn đứng xa ta hàng chục mét.
Trên võng mạc ta hình ảnh của đứa trẻ lớn hơn ảnh của người lớn, nhưng ta vẫn biết
đâu là đứa trẻ đâu là người lớn nhờ tri giác.
Ứng dụng:
– Trong hoạt động quản lý, các nhà quản lý, lãnh đạo ít bị tác động bởi môi trường
xung quanh, có cái nhìn bao quát, toàn diện.
– Tuy nhiên, đôi khi lại dẫn đến cái nhìn phiến diện, độc đoán, trong suy nghĩ hành
động của con người.
e. Quy luật tổng giác:
Trong khi tri giác thế giới, con người không chỉ phản ánh thế giới bằng
những giác quan cụ thể mà toàn bộ những đặc điểm nhân cách, đặc điểm tâm lý của con
người cũng tham gia tích cực vào quá trình tri giác, làm cho khả năng tri giác của con
người sâu sắc, tinh vi và chính xác hơn.
Những đặc điểm nhân cách hình thành ở cá nhân:
– Tư duy, trí nhớ, cảm xúa
– Tâm trạng, chú ý, tâm thế
– Kinh nghiệm, vốn hiểu biết, năng lực nhận thức, kỹ năng, kỹ xảo
– Nhu cầu, hứng thú, tình cảm
Những đặc điểm tâm lý đã hình thành ở cá nhân đã chi phối đến đối tượng tri
giác, tốc độ tri giác và độ chính xác của tri giác.
Ví dụ: Khi tâm trạng ta không vui thì nhìn vào một khung cảnh nào đó, dù nó có
đẹp đến đâu thì ta cũng thấy nó rất nhàm chán.
Ứng dụng:
– Trong giao tiếp: hình dáng, phong cách, nét mặt, ánh mắt, cách trang điểm, quàn
áo, lời nói, nụ cưới, ít nhiều cũng ảnh hưởng đến tri giác, những hiểu biết về trình độ
văn hóa, nhân cách, tình cảm dành cho nhau.
– Trong giáo dục: quan tâm đến kinh nghiệm, vốn hiểu biết, hứng thú, tâm lý, tình
cảm, giúp học sinh nhạy bén, tinh tế hơn.
Ví dụ: Trong các trường mấu giáo, các cô giáo thường sử dụng hình ảnh, tranh vẽ
để giúp các em nhận biết dễ hơn đồng thời tạo cảm giác thích thú, hấp dẫn các em tập
trung, ghi nhớ bài.
f. Ảo giác:
Ảo giác là sự phản ánh sai lầm về sự vật, hiện tượng có thật đang tác động vào
các giác quan của cá nhân mà sự sai lầm này mang tính khách quan.
Ví dụ: Khi ta đi ngoài trời nắng lâu thì ta cảm giác như phía trước xa xa có một
vũng nước. Đó là do đi nắng lâu sẽ khiên ta cảm thấy nóng và khát nước dẫn đến áo
giác phía trước có một vũng nước.
Hay như trong hình vẽ thì ta cảm giác đoạn thẳng ab > cd nhưng thực tế hai đoạn
này bằng nhau.
Nguyên nhân sinh ra ảo giác:
Nguyên nhân khách quan:
– Do thiếu sự tương phản giữa vật và nền, do sự xóa nhòa giữa vật và nền.
Ví dụ: trong chiến tranh, để ngụy trang tránh máy bay trinh sát của địch, ông cha ta
đã dùng những cành lá buộc vào ba lô vác trên vai khiến quân địch khó phân biệt được
khi ta đang hành quân trong rừng.
– Do hiệu ứng khuếch tán, nghĩa là vật sáng hơn vật tối mặc dù chúng bằng nhau.
Nguyên nhân chủ quan: không hiểu được ý nghĩa về hình ảnh mà mình tri giác.
Ứng dụng:
– Người ta lợi dụng ảo giác vào kiến trúc, hội họa, trang trí, trang phục…để phục vụ
cho cuộc sống con người.
Ví dụ: Nếu bạn nữ có da trắng hồng thì nên chọn những trang phục có màu thẫm
hoặc tối để làm tôn lên làn da đó. Ngược lại, những bạn có da tối thì nên mặc những
trang phục có màu sáng, Hay nếu bạn thấp thì nên mặc áo kẻ dọc sẽ tạo cảm giác cao
hơn, nếu bạn cao, gầy thì nên mặc áo kẻ ngang
Bên cạnh đó, ảo giác còn gây ra hoang tưởng, mơ mộng về một việc mà biết chắc
không có thật, phản ánh không đúng, sai lệch về bản chất bên trong của sự vật, hiện
tượng
Câu 2: Tư duy xuất phát từ hoàn cảnh có vấn đề vì:
Hoạt động nhận thức là một trong những hoạt động cơ bản của con người. Nó
bao gồm các hoạt động : cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy và tưởng tượng.Trong số đó,
tư duy là một hoạt động vô cùng quan trọng.
Nói đến tư duy là ta nhắc đến một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính
bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của các sự vật hiện
tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết. Xét về nguồn gốc hình
thành tư duy có ý kiến cho rằng: “Tư duy xuất phát từ hoàn cảnh có vấn đề ’’.Như
vậy, trước hết phải gặp hoàn cảnh (tình huống ) có vấn đề, tức hoàn cảnh ( tình huống)
có chứa đựng một mục đích mới, một vấn đề mới, một cách thức giải quyết mới mà
những phương tiện ,phương pháp hoạt động cũ, mặc dù vẫn còn cần thiết nhưng không
đủ sức giải quyết vấn đề mới đó, để đạt được mục đích mới đó. Muốn giải quyết vấn đề
này phải tìm ra cách thức giải quyết mới, tức là phải tư duy. Mặt khác, hoàn cảnh có
vấn đề phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được chuyển thành nhiệm vụ của cá nhân,
tức là cá nhân phải xác định được cái gì (dữ kiện) đã biết, đã cho và cái gì còn chưa
biết, phải tìm, đồng thời phải có nhu cầu (động cơ) tìm kiếm nó. Những dự kiên quen
thuộc hay nằm ngoài tầm hiểu biết của cá nhân thì tư duy cũng không xuất hiện.
Để chứng minh về nguồn gốc nói trên của tư duy,chúng ta hãy cùng tìm hiểu
về một số ví dụ sau:
Ví dụ 1:Bài toán ‘MUA KẸO” :
Cho bạn 2000 đồng đi mua kẹo .Biết :
– 1 viên kẹo giá 200 đồng.
– Cứ 2 vỏ kẹo đổi được 1 viên.
Hỏi với 2000 đồng, bạn sẽ mua được bao nhiêu viên kẹo? Khi đọc bài toán này lên
đầu tiên trong đầu chúng ta sẽ nghĩ rằng: đây là bài toán chắc học sinh lớp 3 cũng sẽ
giải được! Chỉ cần một phép tính 2000 : 200 =10 là sẽ ra số viên kẹo mà chúng ta mua
được với số tiền đã cho. Nhưng kết quả như vậy có phải là đáp án đúng? Mặt khác, bài
ra còn cho thêm dữ liệu “cứ 2 vỏ kẹo đổi được 1 viên” lẽ nào lại không dùng đến? Mà
theo logic toán học thì tất cả những dữ liệu mà bài toán cho đều sẽ dùng đến mà không
phải là thừa! Như vậy hoàn cảnh có vấn đề đã xuất hiện và sẽ làm cho chúng ta phải
suy nghĩ rằng như thế nào mới là đúng đây? Do đó chính hoàn cảnh có vấn đề này đã
làm xuất hiện tư duy.
Sau đây là một số cách giải theo cách “ tư duy ” của từng người:
Người thứ nhất giải như sau:
2000 đồng > 10 viên (1)
10 viên > 10 vỏ >5 viên (2)
5 viên > 5 vỏ > 2 viên (3) + 1 vỏ
2 viên > 2 vỏ > 1 viên (4)
1 viên > 1 vỏ + 1 vỏ dư trên > 1 viên (5)
1 viên (5)này ăn xong dư ra 1 vỏ, rồi đến kêu bà chủ quán bán thêm 1 viên (6)
( nhưng ko đưa tiền ) ăn xong lấy 1 vỏ lấy 1 vỏ viên (5) + 1 vỏ viên (6) > 1 viên.
Viên này đưa lại cho bà chủ, thế là hết nợ viên (6) .
Tổng số viên mua được :
(1) + (2) + (3) + (4) + (5) + (6) = 10 + 5 +2 +1 +1 +1 = 20
Nên với 2000 đồng bạn có thể mua được tổng cộng 20 viên kẹo.
Người thứ 2 giải như sau:
Tôi dùng 2000 đồng mua được 10 viên kẹo.
– Tôi tiến hành ăn hết 10 viên kẹo vùa mua được lúc này sẽ xuất hiện 10 vỏ kẹo tôi
lại mang đi đổi được 5 viên kẹo.
– Tôi tiến hành ăn hết 5 viên kẹo vừa đổi được lúc này sẽ xuất hiện 5 vỏ kẹo tôi lại
mang đi đổi được 2 viên kẹo và dư 1 vỏ kẹo.
– Tôi tiến hành ăn hết 2 viên kẹo vừa đổi được lúc này sẽ xuất hiện 2 vỏ kẹo+với 1
vỏ kẹo lúc nãy = 3 vỏ kẹo tôi lại mang đi đổi được 1 viên kẹo và dư 1 vỏ kẹo.
– Tôi tiến hành ăn hết 1 viên kẹo vừa đổi được lúc này sẽ xuất hiện 1 vỏ kẹo+với 1
vỏ kẹo lúc nãy = 2 vỏ kẹo tôi lại mang đi đổi được 1 viên kẹo.
> Vậy tổng cộng số kẹo mà ta có được là: 19 viên
Ví dụ 2: Trong giờ kiểm tra toán, cô gióa cho một bài toán mới mà từ trước đến giờ
chưa bao giowf cô cho lớp làm thử. Bài tập này dành cho những học sinh khá giỏi của
lớp. Để giải được nó, ta cần tổng hợp tất cả các cách giải đã học trước đó lại để phân
tích bài toán. Trong hoàn cảnh này, những học sinh nhận ra được vấn đề rằng bài toán
này không thẻ giải bằng phương pháp bình thường sẽ xuất hiện tư duy về bài toán (do
trong giờ kiểm tra nên cần thiết phải làm được bài đẻ đạt điểm cao và có nhu cầu giải
quyết vấn đề ). Như vậy tình huống mới này đã thôi thúc học sinh cần phải tư duy đầu
óc để làm bài toán đó. Nhưng cũng bài toán đó nhưng trong trường hợp thi học sinh
giỏi thì các thí sinh khi tiếp xúc với bài này, thí sinh chuyên toán sẽ có nhu cầu cao với
dạng bài tập mới từ đó dẫn đến việc tư duy cho bài toán, còn thí sinh chuyên hóa sẽ
không có nhu cầu với bài toán trên. Lúc này tư duy để giải bài toán sẽ không xuất hiện
đối với thí sinh chuyên hóa.
Như vậy, qua việc phân tích các ví dụ trên ta có thể chứng minh rằng : Tư duy
xuất phát từ hoàn cảnh có vấn đề. Vấn đề là tiền đề để xuất hiện tư duy, vấn đề thúc
đẩy và là động lực cho tư duy.
Nhận xét:
– Tư duy không thể nảy sinh nếu thiếu vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Mức độ của
vấn đề có tác động quyết định đến khả năng hình thành tư duy. Nhưng việc tư duy và
tìm ra được phương pháp giải quyết vấn đề lại còn tùy thuộc vào năng lực và điều kiện
thực tế của mỗi cá nhân trong quá trình nhận thức và tư duy
Ý nghĩa:
– Việc nhận ra được bản chất tính có vấn đề của tư duy giúp ta có cái nhìn khoa học
và chính xác về khả năng hình thành tư duy, giải quyết vấn đề của chúng ta. Là yếu tố
quan trọng để chỉ ra rằng việc nâng cao khả năng tư duy của con người là hoàn toàn có
thể và chủ động, giúp con người ta có động lực để học tập, tích lũy và hoàn thiện bản
thân, hoạt động của chính mình.
– Đối với sinh viên, việc học tập và rèn luyện đôi khi gây ra nhiều khó khăn nhưng
đó cũng là động lực giúp chúng ta có thể trưởng thành hơn. Qua đó nêu ra nhiệm vụ đối
với mỗi sinh viên là phải không ngừng học tập, trau dồi bản thân để có thể giải quyết
được nhiều vấn dề phức tạp do cuộc sống đem lại.
sống : I.Cảm giác : 1. Định nghĩa : Cảm giác là quy trình tâm ý phản ánh từng thuộc tính riêng không liên quan gì đến nhau, vẻ bên ngoài của sự vậthiện tượng đơn cử đang trực tiếp ảnh hưởng tác động vào giác quan của ta. 2. Các quy luật cơ bản của cảm xúc : a. Quy luật ngưỡng cảm xúc : Ngưỡng cảm xúc là số lượng giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm xúc. Ngưỡng cảm xúc có hai loại : ngưỡng cảm xúc phía trên và ngưỡng cảm xúc phíadưới. – Ngưỡng cảm xúc phía trên : là cường độ kích thích tối đa mà ở đó vẫn còn cho tacảm giác. – Ngưỡng cảm xúc phái dưới : là cường độ kích thích tối thiểu đủ để gây cảm giácChẳng hạn so với cảm xúc nhìn ngưỡng dưới của mắt là những sóng ánh sáng cóbước sóng 390 milimicron và ngưỡng trên 780 milimicron, vùng phản ánh tốt nhất 565 milimicoron của cảm xúc nghe là 1000 hec. – Phạm vi giữa ngưỡng cảm xúc phía trên và ngưỡng cảm xúc phía dưới là vùngcảm giác được trong đó có một vùng phản ánh tốt nhất. – Ngưỡng sai biệt là mức độ chênh lệch là mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độhoặc đặc thù giữa hai kích thích đủ để phân biệt sự khác nhau giữa cá kích thích. Ngưỡng sai biệt của cảm xúc là một hằng số. Ví dụ : + Cảm giác thị giác : 1/100 + Cảm giác thính giác : 1/10 + Cảm giác sức ép khối lượng, vị ngọt 1/30 – Ănghen nói : “ Con đại bàng nhìn xa hơn người nhiều, nhưng mắt người phân biệtđược nhiều sự vật hơn mắt đại bàng ”. Độ nhạy cảm của cảm xúc là năng lực cảm nhận được cường độ kích thích tốithiểu, tức là nhận ra được ngưỡng cảm xúc, ngưỡng cảm xúc phía dưới càng nhỏ thìđộ nhạy cảm của cảm xúc càng cao. Độ nhạy cảm của cảm xúc tỉ lệ nghịch vớingướng cảm xúc pháia dưới. Độ nhạy cảm sai biệt của cảm xúc là năng lực cảm nhận được sự độc lạ vềcường độ, đặc thù của hai kích thích, tức là nhận ra được ngưỡng sai biệt của cảmgiác, ngươnngx sai biệt càng nhỏ thì độ nhạy cảm sai biệt của cảm xúc càng cao. Độnhạy cảm sai biệt của cảm xúc tỉ lệ nghịch với ngưỡng sai biệt. Vai trò : Nhờ có ngưỡng cảm xúc mà ta hoàn toàn có thể lằng nghe thấy tiếng xe cộ chạyồn ào, hoàn toàn có thể nhìn thấy mọi vật đang hoạt động và cũng hoàn toàn có thể cảm nhận được thếgiới xung quanh luôn biến hóa. Ví dụ : tai ta hoàn toàn có thể nghe thấy được âm thanh trong khoảng chừng từ 16H z đến20000Hz, âm thanh ta nghe được tốt nhất là ở 100H z, dưới 16H z âm thanh nhỏ quángưỡng cảm xúc nghe nên ta không hề cảm nhận được, trên 20000H z âm thanh lúcnày quá lớn ta cũng không hề nghe thấy được. b. Quy luật về sự thích ứng của cảm xúc : Thích ứng là năng lực biến hóa độ nhạy cảm của cảm xúc cho phù hơp với sựthay đổi của cường độ kích thích. – Cảm giác sẽ mất dần khi kích thích kéo dàiVí dụ : Khi ta đeo vòng tay thì lâu ngày ta không còn cảm nhận được sức nặng củanó như khi mới đeo nữa. – Cường độ kích thích tăng thì độ nhạy cảm của cảm xúc giảm. Ví dụ : Từ chỗ tối bước qua chỗ sáng, phải qua một thời hạn đợi cho tính nhạy cảmcủa khí quan nghiên cứu và phân tích giảm xuống ta mới phân biệt được những vật chung quanh. – Cường độ kích thích giảm thì độ nhạy cảm của cảm xúc tăng. Ví dụ : Hai bàn tay, một ngâm vào nước nóng, một ngâm vào nước lạnh sau đónhúng cả hai vào chậu nước thông thường thì bàn tay ngâm ở châu nước nóng cảm thấynước ở chậu lạnh hơn so với bàn tay kia. Quy luật thích ứng có ở tổng thể những loại cảm xúc, nhưng mức độ thích ứngkhông giống nhau : – Có cảm xúc thích ứng nhanh như : cảm xúc nhìn, cảm xúc đụng chạm … – Có cảm xúc thích ứng chậm như : cảm xúc nghe, cảm xúc đau ( khó thích ứng ) Khả nănng thích ứng của cảm xúc hoàn toàn có thể được tăng trưởng do hoạt động giải trí và rènluyện. c. Quy luật về sự ảnh hưởng tác động qua lại giữa những cảm xúc : Các cảm xúc luôn tác động ảnh hưởng qua lại lẫn nhau và làm đổi khác tính nhạy cảm củanhau. Cụ thể : – Kích thích yếu lên một cơ quan nghiên cứu và phân tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm cảu cơquan nghiên cứu và phân tích kia. Ví dụ : Những âm thanh nhẹ làm tăng thêm tình nhạy cảm nhìn. – Kích thích mạnh lên một cơ quan nghiên cứu và phân tích này sẽ làm giảm độ nhạy cảm của mộtcơ quan nghiên cứu và phân tích kia. Ví dụ : Khi ta bị bệnh thì lúc ăn sẽ không có cảm xúc ngon miệng. Sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa những cảm xúc hoàn toàn có thể diễm ra đồng thời hay nối tiếptrên những cảm xúc còn loại hay khác loại. Do đó, có hai loại tương phản : tương phảnđồng thời và tương phản tiếp nối đuôi nhau. – Tương phản đồng thời là sự đổi khác cường độ và chất lượng của cảm xúc dướiảnh hưởng của một kích thích cùng loại xảy ra đồng thời. Ví dụ : Khi ta đặt hai tờ giấy trắng cùng loại, một trên nền giấy đen, một trên nềngiấy xám thì tờ giấy trắng trên nền giấy đen ta sẽ có cảm xúc như nó trắng hơn so vớitờ giấy trên nền xám kia. – Tương phản tiếp nối đuôi nhau là sự đổi khác cường độ và chất lượng của cảm xúc dưới ảnhhưởng của một kích thích cùng loại xáy ra trước đó. Ví dụ : Khi ta ngâm tay trong một chậu nước đá thì khi ta bỏ tay ra và ngay sau đóngâm vào một chậu nước ấm ta sẽ cảm xúc chậu nước ấm rất nóng. Hay khi ta ăn mộtcái kẹo ngọt sau đó ăn một quả chuối thì ta sẽ thấy quả chuối đó không ngọt như trướcnữa. II. Tri giác : 1. Định nghĩa : Tri giác là quy trình tâm ý phản ánh một cách toàn vẹn những thuộc tính hình thức bề ngoài củasự vật và hiện tượng kỳ lạ đang trực tiếp tác động ảnh hưởng vào những giác quan của ta. 2. Các quy luật cơ bản của tri giác : a. Quy luật về tính đối tượng người tiêu dùng của tri giác : Quá trình tri giác luôn phản ánh sự vật, hiện tượng kỳ lạ của quốc tế khách quan. Sản phẩm của quy trình tri giác ( hình tượng ) một mặt phản ánh đặc thù bềngoài của sự vật, hiện tượng kỳ lạ mặt khác nó là hình ảnh chủ quan của quốc tế kháchquan. Ví dụ : Các chú bộ đội hoàn toàn có thể tri giác được chiếc xe tăng dựa vào tiếng xích xe, tiếng động cơ. Đối tượng của quốc tế được Open dần trong hoạt động giải trí. Ví dụ : Người họa sỹ hoàn toàn có thể tri giác bức tranh tốt hơn so với tất cả chúng ta ( họ hoàn toàn có thể dễdàng phân biệt thể loại tranh cũng như ý nghĩa của bức tranh đó ) Tính đối tượng người dùng của tri giác có vai trò quan trọng – nó là cơ sở của chức năngđịnh hướng hành vi và hoạt động giải trí của con người. Ứng dụng : – Được dùng khi cần xác lập đó là đối tượng người tiêu dùng gì phản ánh thực chất bên trong củađối tượng. – Nếu chỉ dựa trên những hình ảnh về đặc thù mà sự vật hiện tượng kỳ lạ đem lại thôngqua những giác quan khó hoàn toàn có thể đem lại tri giác một cách không thiếu, toàn vẹn. – trái lại, chỉ dựa trên hiểu biết của vốn kinh nghiệm tay nghề của bản thân mà vội vàngđưa ra Tóm lại rất thuận tiện mắc sai lầm đáng tiếc, thiếu đúng mực trong quyết định hành động. b. Quy luật về tính lựa chọn của tri giác : Tính lựa chọn cảu tri giác là quy trình tách đối tượng người tiêu dùng ra khỏi toàn cảnh xungquanh để phản ánh đối tượng người dùng tốt hơn. – Bối cảnh là những sự vật, hiện tượng kỳ lạ trong hiện thực khách quan bên ngoài đốitượng tri giác. Đôiws tượng tri giác là hình, toàn cảnh tri giác là nền, giữa đối tượng người tiêu dùng vàbối cảnh không cố định và thắt chặt. Bối cảnh và đối tượng người dùng rõ ràng thì tri giác thuận tiện và ngượclại ( ngụy trang ). Ví dụ : Tính lựa chọn của tri giác phụ thuộc vào vào nhiều yếu tố khách quan ( của vậtkích thích ) và chủ quan ( chủ thể ). Đối tượng của tri giác càng nổi rõ trong toàn cảnh thì sự lựa chọn sẽ diểm ranhanh hơn và ngược lại. Kinh nghiệm của chủ thể về loại đối tượng người tiêu dùng nào càng phong phú và đa dạng thì chủ thể dễchọn đối tượng người tiêu dùng đó làm tri giác. Ví dụ : Trong sách để giúp học viên ghi nhớ những kỹ năng và kiến thức quan trọng, người tathường in nghiêng để nhấn mạnh vấn đề. Hay giáo viên thường dùng bút đỏ để chấm bài giúphọc sinh hoàn toàn có thể nhận ra chỗ sai của mình thuận tiện .. Ứng dụng : – Trang trí, bố cục tổng quan … – Trong giảng dạy, những thầy cô thường dùng bài giảng phối hợp với tài liệu trực quansinh động, nhu yếu học viên làm bài tập nổi bật, nhấn mạnh vấn đề những phần quan trọnggiúp những học viên tiếp thu bài. c. Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác : Khi tri giác một sự vật, hiện tượng kỳ lạ con người có năng lực gọi tên, phân loại, chỉ ra được tác dụng, ý nghĩa của nố so với hoạt động giải trí của bản thân. Ví dụ : Khi đi mua hoa quả, ta hoàn toàn có thể tri giác được đó là loại quả gì và hoàn toàn có thể gọi têncũng như nói được những đặc thù riêng không liên quan gì đến nhau của quả đó. Chẳng hạn như ta có thểphân biệt quả cam với quả bưởi, quả bưởi to hơn quả cam, mùi vị cũng khác nhau Vai trò : giúp ta gọi tên ( con gì ?, cái gì ? ) ; biết tác dụng, đặc thù của sự vật, hiện tượng kỳ lạ ; xếp loại và phân nhóm chúng Tính có ý nghĩa của tri giác nhờ vào vào năng lực tri giác toàn vẹn sự vật, hiện tượng kỳ lạ, vốn hiểu biết, vốn kinh nghiệm tay nghề, năng lực ngôn từ, năng lực tư duy củachủ thể. Ứng dụng : Người ta dùng năng lực tri giác sự vật, hiện tượng kỳ lạ của con ngườiđể họ nhận ra được sảm phẩm, đặc thù vấn đề thống qua quảng cáo, nghệ thuât … Tùy thuộc vào đặc thù của nhóm người mua mà đưa ra những mẫu sản phẩm tương thích. d. Quy luật về tính không thay đổi của tri giác : Tính không thay đổi cảu tri giác là năng lực phản ánh tương đối không thay đổi về sự vật, hiện tượng kỳ lạ khi điều kiện kèm theo tri giác đã đổi khác. Ví dụ : Khi viết lên trang giấy ta luôn thấy trang giấy có màu trắng mặc dầu taviết dưới ánh đèn dầu, lúc trời tối. Tính không thay đổi của tri giác nhờ vào vào : – Cấu trúc không thay đổi của sự vật hiện tượng kỳ lạ – Vốn tri thức, kinh nghiệm tay nghề cảu cá thể – Cơ chế tự điều khiển và tinh chỉnh của hệ thần kinh, đơn cử là mối liên hệ ngược của hệ thầnkinh. Ví dụ : một đứa trẻ đứng gần ta và một người lớn đứng xa ta hàng chục mét. Trên võng mạc ta hình ảnh của đứa trẻ lớn hơn ảnh của người lớn, nhưng ta vẫn biếtđâu là đứa trẻ đâu là người lớn nhờ tri giác. Ứng dụng : – Trong hoạt động giải trí quản trị, những nhà quản trị, chỉ huy ít bị ảnh hưởng tác động bởi môi trườngxung quanh, có cái nhìn bao quát, tổng lực. – Tuy nhiên, đôi lúc lại dẫn đến cái nhìn phiến diện, độc đoán, trong tâm lý hànhđộng của con người. e. Quy luật tổng giác : Trong khi tri giác quốc tế, con người không chỉ phản ánh quốc tế bằngnhững giác quan đơn cử mà hàng loạt những đặc thù nhân cách, đặc thù tâm ý của conngười cũng tham gia tích cực vào quy trình tri giác, làm cho năng lực tri giác của conngười thâm thúy, phức tạp và đúng mực hơn. Những đặc thù nhân cách hình thành ở cá thể : – Tư duy, trí nhớ, cảm xúa – Tâm trạng, quan tâm, tâm thế – Kinh nghiệm, vốn hiểu biết, năng lượng nhận thức, kiến thức và kỹ năng, kỹ xảo – Nhu cầu, hứng thú, tình cảm Những đặc thù tâm ý đã hình thành ở cá thể đã chi phối đến đối tượng người dùng trigiác, vận tốc tri giác và độ đúng chuẩn của tri giác. Ví dụ : Khi tâm trạng ta không vui thì nhìn vào một khung cảnh nào đó, dù nó cóđẹp đến đâu thì ta cũng thấy nó rất nhàm chán. Ứng dụng : – Trong tiếp xúc : hình dáng, phong thái, nét mặt, ánh mắt, cách trang điểm, quànáo, lời nói, nụ cưới, không ít cũng tác động ảnh hưởng đến tri giác, những hiểu biết về trình độvăn hóa, nhân cách, tình cảm dành cho nhau. – Trong giáo dục : chăm sóc đến kinh nghiệm tay nghề, vốn hiểu biết, hứng thú, tâm ý, tìnhcảm, giúp học viên nhạy bén, tinh xảo hơn. Ví dụ : Trong những trường mấu giáo, những cô giáo thường sử dụng hình ảnh, tranh vẽđể giúp những em nhận ra dễ hơn đồng thời tạo cảm xúc thú vị, mê hoặc những em tậptrung, ghi nhớ bài. f. Ảo giác : Ảo giác là sự phản ánh sai lầm đáng tiếc về sự vật, hiện tượng kỳ lạ có thật đang tác động ảnh hưởng vàocác giác quan của cá thể mà sự sai lầm đáng tiếc này mang tính khách quan. Ví dụ : Khi ta đi ngoài trời nắng lâu thì ta cảm xúc như phía trước xa xa có mộtvũng nước. Đó là do đi nắng lâu sẽ khiên ta cảm thấy nóng và khát nước dẫn đến áogiác phía trước có một vũng nước. Hay như trong hình vẽ thì ta cảm xúc đoạn thẳng ab > cd nhưng thực tiễn hai đoạnnày bằng nhau. Nguyên nhân sinh ra ảo giác : Nguyên nhân khách quan : – Do thiếu sự tương phản giữa vật và nền, do sự xóa nhòa giữa vật và nền. Ví dụ : trong cuộc chiến tranh, để ngụy trang tránh máy bay trinh thám của địch, ông cha tađã dùng những cành lá buộc vào balo vác trên vai khiến quân địch khó phân biệt đượckhi ta đang hành quân trong rừng. – Do hiệu ứng khuếch tán, nghĩa là vật sáng hơn vật tối mặc dầu chúng bằng nhau. Nguyên nhân chủ quan : không hiểu được ý nghĩa về hình ảnh mà mình tri giác. Ứng dụng : – Người ta tận dụng ảo giác vào kiến trúc, hội họa, trang trí, phục trang … để phục vụcho đời sống con người. Ví dụ : Nếu bạn nữ có da trắng hồng thì nên chọn những phục trang có màu thẫmhoặc tối để làm tôn lên làn da đó. trái lại, những bạn có da tối thì nên mặc nhữngtrang phục có màu sáng, Hay nếu bạn thấp thì nên mặc áo kẻ dọc sẽ tạo cảm xúc caohơn, nếu bạn cao, gầy thì nên mặc áo kẻ ngangBên cạnh đó, ảo giác còn gây ra hoang tưởng, mơ mộng về một việc mà biết chắckhông có thật, phản ánh không đúng, rơi lệch về thực chất bên trong của sự vật, hiệntượngCâu 2 : Tư duy xuất phát từ thực trạng có yếu tố vì : Hoạt động nhận thức là một trong những hoạt động giải trí cơ bản của con người. Nóbao gồm những hoạt động giải trí : cảm xúc, tri giác, trí nhớ, tư duy và tưởng tượng. Trong số đó, tư duy là một hoạt động giải trí vô cùng quan trọng. Nói đến tư duy là ta nhắc đến một quy trình tâm ý phản ánh những thuộc tínhbản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của những sự vật hiệntượng trong hiện thực khách quan mà trước đó ta chưa biết. Xét về nguồn gốc hìnhthành tư duy có quan điểm cho rằng : “ Tư duy xuất phát từ thực trạng có yếu tố ’ ’. Nhưvậy, trước hết phải gặp thực trạng ( trường hợp ) có yếu tố, tức thực trạng ( trường hợp ) có tiềm ẩn một mục tiêu mới, một yếu tố mới, một phương pháp xử lý mới mànhững phương tiện đi lại, chiêu thức hoạt động giải trí cũ, mặc dầu vẫn còn thiết yếu nhưng khôngđủ sức xử lý yếu tố mới đó, để đạt được mục tiêu mới đó. Muốn xử lý vấn đềnày phải tìm ra phương pháp xử lý mới, tức là phải tư duy. Mặt khác, thực trạng cóvấn đề phải được cá thể nhận thức rất đầy đủ, được chuyển thành trách nhiệm của cá thể, tức là cá thể phải xác lập được cái gì ( dữ kiện ) đã biết, đã cho và cái gì còn chưabiết, phải tìm, đồng thời phải có nhu yếu ( động cơ ) tìm kiếm nó. Những dự kiên quenthuộc hay nằm ngoài tầm hiểu biết của cá thể thì tư duy cũng không Open. Để chứng tỏ về nguồn gốc nói trên của tư duy, tất cả chúng ta hãy cùng tìm hiểuvề 1 số ít ví dụ sau : Ví dụ 1 : Bài toán ‘ MUA KẸO ” : Cho bạn 2000 đồng đi mua kẹo. Biết : – 1 viên kẹo giá 200 đồng. – Cứ 2 vỏ kẹo đổi được 1 viên. Hỏi với 2000 đồng, bạn sẽ mua được bao nhiêu viên kẹo ? Khi đọc bài toán này lênđầu tiên trong đầu tất cả chúng ta sẽ nghĩ rằng : đây là bài toán chắc học viên lớp 3 cũng sẽgiải được ! Chỉ cần một phép tính 2000 : 200 = 10 là sẽ ra số viên kẹo mà tất cả chúng ta muađược với số tiền đã cho. Nhưng hiệu quả như vậy có phải là đáp án đúng ? Mặt khác, bàira còn cho thêm tài liệu “ cứ 2 vỏ kẹo đổi được 1 viên ” lẽ nào lại không dùng đến ? Màtheo logic toán học thì tổng thể những tài liệu mà bài toán cho đều sẽ dùng đến mà khôngphải là thừa ! Như vậy thực trạng có yếu tố đã Open và sẽ làm cho tất cả chúng ta phảisuy nghĩ rằng như thế nào mới là đúng đây ? Do đó chính thực trạng có yếu tố này đãlàm Open tư duy. Sau đây là 1 số ít cách giải theo cách “ tư duy ” của từng người : Người thứ nhất giải như sau : 2000 đồng > 10 viên ( 1 ) 10 viên > 10 vỏ > 5 viên ( 2 ) 5 viên > 5 vỏ > 2 viên ( 3 ) + 1 vỏ2 viên > 2 vỏ > 1 viên ( 4 ) 1 viên > 1 vỏ + 1 vỏ dư trên > 1 viên ( 5 ) 1 viên ( 5 ) này ăn xong dư ra 1 vỏ, rồi đến kêu bà chủ quán bán thêm 1 viên ( 6 ) ( nhưng ko đưa tiền ) ăn xong lấy 1 vỏ lấy 1 vỏ viên ( 5 ) + 1 vỏ viên ( 6 ) > 1 viên. Viên này đưa lại cho bà chủ, thế là hết nợ viên ( 6 ). Tổng số viên mua được : ( 1 ) + ( 2 ) + ( 3 ) + ( 4 ) + ( 5 ) + ( 6 ) = 10 + 5 + 2 + 1 + 1 + 1 = 20N ên với 2000 đồng bạn hoàn toàn có thể mua được tổng số 20 viên kẹo. Người thứ 2 giải như sau : Tôi dùng 2000 đồng mua được 10 viên kẹo. – Tôi thực thi ăn hết 10 viên kẹo vùa mua được lúc này sẽ Open 10 vỏ kẹo tôilại mang đi đổi được 5 viên kẹo. – Tôi triển khai ăn hết 5 viên kẹo vừa đổi được lúc này sẽ Open 5 vỏ kẹo tôi lạimang đi đổi được 2 viên kẹo và dư 1 vỏ kẹo. – Tôi triển khai ăn hết 2 viên kẹo vừa đổi được lúc này sẽ Open 2 vỏ kẹo + với 1 vỏ kẹo lúc nãy = 3 vỏ kẹo tôi lại mang đi đổi được 1 viên kẹo và dư 1 vỏ kẹo. – Tôi triển khai ăn hết 1 viên kẹo vừa đổi được lúc này sẽ Open 1 vỏ kẹo + với 1 vỏ kẹo lúc nãy = 2 vỏ kẹo tôi lại mang đi đổi được 1 viên kẹo. > Vậy tổng số số kẹo mà ta có được là : 19 viênVí dụ 2 : Trong giờ kiểm tra toán, cô gióa cho một bài toán mới mà từ trước đến giờchưa bao giowf cô cho lớp làm thử. Bài tập này dành cho những học viên khá giỏi củalớp. Để giải được nó, ta cần tổng hợp toàn bộ những cách giải đã học trước đó lại để phântích bài toán. Trong thực trạng này, những học viên nhận ra được yếu tố rằng bài toánnày không thẻ giải bằng giải pháp thông thường sẽ Open tư duy về bài toán ( dotrong giờ kiểm tra nên thiết yếu phải làm được bài đẻ đạt điểm trên cao và có nhu yếu giảiquyết yếu tố ). Như vậy trường hợp mới này đã thôi thúc học viên cần phải tư duy đầuóc để làm bài toán đó. Nhưng cũng bài toán đó nhưng trong trường hợp thi học sinhgiỏi thì những thí sinh khi tiếp xúc với bài này, thí sinh chuyên toán sẽ có nhu yếu cao vớidạng bài tập mới từ đó dẫn đến việc tư duy cho bài toán, còn thí sinh chuyên hóa sẽkhông có nhu yếu với bài toán trên. Lúc này tư duy để giải bài toán sẽ không xuất hiệnđối với thí sinh chuyên hóa. Như vậy, qua việc nghiên cứu và phân tích những ví dụ trên ta hoàn toàn có thể chứng tỏ rằng : Tư duyxuất phát từ thực trạng có yếu tố. Vấn đề là tiền đề để Open tư duy, yếu tố thúcđẩy và là động lực cho tư duy. Nhận xét : – Tư duy không hề phát sinh nếu thiếu yếu tố đặt ra trong đời sống. Mức độ củavấn đề có tác động ảnh hưởng quyết định hành động đến năng lực hình thành tư duy. Nhưng việc tư duy vàtìm ra được giải pháp xử lý yếu tố lại còn tùy thuộc vào năng lượng và điều kiệnthực tế của mỗi cá thể trong quy trình nhận thức và tư duy Ý nghĩa : – Việc nhận ra được thực chất tính có yếu tố của tư duy giúp ta có cái nhìn khoa họcvà đúng chuẩn về năng lực hình thành tư duy, xử lý yếu tố của tất cả chúng ta. Là yếu tốquan trọng để chỉ ra rằng việc nâng cao năng lực tư duy của con người là trọn vẹn cóthể và dữ thế chủ động, giúp con người ta có động lực để học tập, tích góp và hoàn thành xong bảnthân, hoạt động giải trí của chính mình. – Đối với sinh viên, việc học tập và rèn luyện nhiều lúc gây ra nhiều khó khăn vất vả nhưngđó cũng là động lực giúp tất cả chúng ta hoàn toàn có thể trưởng thành hơn. Qua đó nêu ra trách nhiệm đốivới mỗi sinh viên là phải không ngừng học tập, trau dồi bản thân để hoàn toàn có thể giải quyếtđược nhiều vấn dề phức tạp do đời sống đem lại .